Phỏng Vấn Đặc Biệt
Bác
Sĩ NGUYỄN THỊ THANH
oOo
Khoa Học Và Đức Tin
Bác sĩ Nguyễn Thị
Thanh, SG 1985
Lời giới thiệu của VNN : Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh, người đã khám phá ra nguồn gốc của siêu
vi và của ung thư với phát minh phương pháp trị tuyệt căn, tận gốc chứng bệnh
ác hiểm nầy. Sau cuộc phỏng vấn mới đây với Báo Ngày Mới Paris, hôm nay, thông
tấn VNN chúng tôi rất hân hạnh được Bác sĩ dành cho một cuộc phỏng vấn đặc biệt
do phóng viên Võ Triều Sơn thực hiện.
Ngoài phần trình bày chi tiết thêm về những
điều quan trọng của bệnh ung thư, trong
cuộc phỏng vấn đặc biệt nầy, Bác sĩ còn có những chia sẻ chân thành cùng quý
độc giả của VNN về những suy tư và ước nguyện của một nhà nghiên cứu khoa học
về Đức Tin đối với Thượng Đế và về thân phận Sinh, Lão, Bệnh, Tử của con người.
Xin kính mời quý vị theo dõi.
*
Sơ lược Tiểu sử
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh :
Sinh quán tại
Quảng Trị, Trung Việt.
Năm 1965, tốt
nghiệp Tiến sĩ Y khoa Quốc gia tại Paris, và Chứng chỉ Hậu Đại học về Vệ sinh
Phòng bệnh Và Công tác Y tế Xã hội (Hygiène, Médecine Préventive et Actions
Sanitaire et Sociale).
Tháng 19/1967,
qua Gia Nã Đại dạy về Physiologie tại Đại học Moncton NB, Canada. Sau đó, về
nước làm Phụ tá Đặc trách Bộ Xã Hội Cứu Trợ cho Bác sĩ Tổng trưởng Trần Lữ Y
(Bác sĩ Lữ Y lúc ấy trông coi cả 3 Bộ Y Tế, Xã Hội và Cứu Trợ).
Sau đó, Bác sĩ
Trần Minh Tùng, Bộ trưởng Y Tế thay thế Bác sĩ Trần Lữ Y, cử Bác sĩ Thanh làm
Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, nhưng sau khi quan sát Bệnh viện, bác sĩ
Thanh từ chối trách vụ nầy và mở phòng mạch tư nghiên cứu về Tâm sinh bệnh, ung
thư và thuốc Nam, Bắc. Công cuộc nghiên cứu nầy kéo dài cho tới khi Bác sĩ sang
định cư tại Montréal (Gia Nã Đại) sau nầy.
Năm 1972 Bác sĩ
Thanh trở lại Paris, thuyết trình khắp Paris cho người Việt và người Pháp
« Sự thật chiến tranh Việt Nam là một sự xâm lăng của CSBV, và kêu gọi thế
giới ủng hộ tinh thần đấu tranh tự vệ chính đáng của nhân dân Miền Nam Việt
Nam»,
Sau 1975, Bác sĩ
Thanh ở lại Việt Nam tiếp tục chữa bệnh. Vì tính tình cương trực, thẳng thắng
lên tiếng chống tham nhũng từ tháng 9/75 đến 30/8/80 thì Bác sĩ bị nhà cầm
quyền giam tù tại Chí hòa gần 3 năm. Tháng 9/1988, Bác sĩ qua định cư tại Gia
Nã Đại.
Sau gần 20 năm
nghiên cứu, Bác sĩ Thanh đã trình bày về « Khám phá nguồn gốc nấm hay trạng
thái thiên nhiên của siêu vi (virus) và tế bào ung thư và đã áp dụng lâm sàng
chữa lành bệnh ung thư cho nhiều người, đặc biệt là chích thuốc làm tiêu
nhanh ung thư vú.
Năm 1998, Bác sĩ
Thanh bắt đầu nạp đơn xin Bằng Sáng Chế tại Hoa Kỳ và Gia Nã Đại. Năm 2002, Bác
sĩ đã được Chính phủ Gia Nã Đại trao Bằng Sáng Chế Trị Tuyệt Căn Ung Thư.
Ngoài nỗ lực
nghiên cứu về Y khoa, Bác sĩ Thanh còn nghiên cứu nhiều về khảo cổ học Việt Nam
và Nguồn gốc Văn hóa Tiền và Sơ sử Việt Nam và đã có nhiều cống hiến rất giá
trị về lãnh vực nầy.
VNN : Kính
thưa Bác sĩ, nhà bác học Louis Pasteur đã nói rằng : Khoa học càng tiến bộ càng
làm cho nhân loại tiến gần lại với Thượng Đế. Là một chuyên gia công giáo
nghiên cứu về Y khoa, Bác sĩ nhận thấy ý tưởng trên đây của Louis Pasteur có ý
nghĩa như thế nào đối với cuộc sống và lý tưởng khoa học mà Bác sĩ đang theo
đuổi?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Đúng, ông Pasteur đã nói rằng: ‘‘Un peu de
science on s’éloigne de la Foi, beaucoup de science on s’en approche = Một chút
khoa học người ta xa Đức Tin (vào Thiên Chúa), nhiều khoa học người ta tiến lại
gần Đức Tin.” Câu nói trên của ông Pasteur là kinh nghiệm đời sống nghiên cứu
khoa học của ông và của một số lớn các nhà khoa học. Càng đi sâu vào nghiên cứu
khoa học ông Pasteur càng mạnh tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa toàn năng.
Ông ấy muốn nói lên khi người ta tập tểnh
một chút khoa học thì họ cảm thấy tự mãn, tự kiêu, coi như với khoa học họ đã
đạt được chân lý cao siêu trên hết, và đã đạt được cứu cánh của đời sống con người; ngoài ra
không còn gì nữa đáng nói. Họ tự mãn, tự kiêu tưởng như mình có thể đạt được
tất cả với một chút khoa học như ‘‘cóc nằm đáy giếng thấy trời bằng vung’’ và không còn tin vào Tạo Hóa toàn năng
đã sinh ra con người và cho họ trí thông minh để họ mò mẩn đi tìm vài tí chút sự thật vô cùng hạn hữu trong thiên nhiên
tức là nghiên cứu khoa học.
Nhưng khi con người đi sâu hơn vào khoa học
thì họ sẽ sửng sốt, bàng hoàng trước những hiểu biết nhỏ nhen vô cùng giới hạn
của họ. Tầm mắt mở ra, họ cảm thấy cái bé nhỏ hèn kém của con người và những
thành quả khoa học đạt được do nhiều công sức dầu phát triền đến đâu cũng chỉ
là cái hiểu biết hạn hẹp vô nghĩa. Từ những nhận thức đó, con người có suy nghĩ
hướng về Tạo Hóa. Vì chỉ có Đức Tin về một Thiên Chúa Toàn Năng mới trả lời mọi
thắc mắc cho con người biết suy nghĩ. Khoa học với mọi phát minh của nó chỉ là
những sự mò mẫm nhỏ nhen trong đêm tối đi tìm những tia sáng li ti sự thật
trong vũ trụ huyền nhiệm của Tạo Hóa. Một ví dụ nhỏ: Một phi công lái máy
bay tự cảm thấy có tài năng vượt tầng mây. Nhưng đi xa hơn, khi theo hỏa tiển
lên cung trăng, ngắm một góc cạnh bé tí xíu vũ trụ bao la hùng vĩ, vô tận, thì
anh ta bàng hoàng, chao đảo, trước cái vô biên của Tạo Hóa và cái hiểu biết nhỏ
nhoi vô nghĩa của mình.
Bất cứ trong ngành nào, đặc biệt là y khoa
thì câu nói của ông Pasteur lại càng đúng. Tuy nhiên, Đức Tin vào Thiên Chúa
không thể là món quà tự động trước khoa học cao thâm. Vì quan niệm về thiên
nhiên vô biên chưa hẳn đã là yếu tố ‘‘cần’’ và ‘‘đủ’’ để con người có Đức Tin
vào Thiên Chúa. Còn cần một yếu tố khác quan trọng hơn, đó là mầu nhiệm về ơn
thánh sủng của Đấng Tối Cao ban tặng cho con người có lòng biết nắm bắt ánh
sáng Đức Tin sâu sắc và bền vững. Vì thế, không phải tất cả các nhà khoa học vĩ
đại đều tin sâu sắc vào Thiên Chúa.
VNN : Từ xưa đến nay, rất nhiều nhà khoa học đã hăng say
làm việc một cách bất vụ lợi dầu gặp phải nhiều khó khăn. Trong bài phỏng vấn
mới đây của bà Diễm Thy Báo Ngày Mới Paris, Bác sĩ cũng đã nói đến vì việc
nghiên cứu ung thư mà phải tan gia bại sản và gặp thật nhiều bất công và phá
hoại. Như vậy, những hy sinh của các nhà khoa học cùng những tiến bộ của khoa
học ngày nay có đương nhiên đem lại hạnh phúc, an lành cho nhân loại không? Hay
nhân loại phải cần tới một thứ gì khác nữa? Và nếu cần thì phải làm thế nào?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Trừ trường hợp được trả lương hậu hỉ hay tài trợ, hay
mua bán bằng phát minh để thành tỉ phú đô la, nếu không, người nghiên cứu khoa
học phải hy sinh nhiều. Phải thành thật nói rằng trong sự hy sinh đó tuy có
tinh thần phục vụ, nhưng phải có sự đam mê vui sướng và nghị lực kiên cường thì
mới mong thành công nhiều ít được.Vợ chồng bà Marie Curie phải đốt bàn ghế
giường tủ đang dùng để nghiên cứu, hai ông bà sống nghèo cho đến chết.
Riêng tôi, gặp phải nhiều điều không may
vừa ở Montréal Canada vừa ở Việt Nam. Tại Montréal thì tôi được hân hạnh hai
bác sĩ đồng nghiệp có phòng mạch giàu có chiếu cố, vì ganh tị, vu khống, tố cáo
tôi ‘‘chữa bệnh thí nghiệm’’ lấy tiền mà không khai báo, nên chính phủ Canada
phạt tôi 100,000$, xiết nhà, và lấy hết tiền trong tài khoản ngân hàng của tôi.
Tuy nhiên, tôi vẩn vui và hiện đang khiếu nại. Sự kiện nầy làm cho tôi suy gẩm
câu Chúa dạy cầu nguyện trong kinh Lạy Cha mà phát run sợ “Vâng ý Chúa dưới đất
cũng như trên trời !.... Ai lấy tiền của con bao nhiểu hãy cho họ thêm chừng
ấy…”
Hạnh phúc và đời sống an lành của nhân loại
không hẳn nhờ khoa học mà có. Từ xưa, khoa học chưa phát triển con người vẫn
sống hạnh phúc an lành. Tuy nhiên, khoa học phát triển đã đem đến nhiều điều
lợi lộc, hữu ích tương đối cho nhân loại. Nhưng cũng không chối cãi được rằng
khoa học cũng đã đem đến nhiều tai nạn cho loài người : súng đạn, bom mìn, chất
độc hóa học, môi trường sống bị phá hoại, nguyên tử, hạt nhân giết người hàng
loạt, xì ke ma tuý mới chỉ thử một lần là nghiện, thuốc phá thai giết trẻ em
nhẹ nhàng, nhanh chóng, trộm cướp, gian dâm, đĩ điếm, ấu dâm, thuốc sex đầu độc
tuổi trẻ, phá hoại gia đình, phim sex, dạy sex cho học sinh, đưa trẻ em đến hư
hỏng quá độ v.v….. Vì thế xã hội loài
người ngày nay suy sụp, quả đất bệnh hoạn, không còn đạo lý nhân văn tinh thần
so với văn minh vật chất.
Vì vậy, hạnh phúc và an bình của nhân loại
hoàn toàn còn tùy lương tâm con người biết lợi dụng khoa học như thế nào. Nhân
loại cần phải bừng tỉnh để biết sống có chân lý, có đạo hạnh và bác ái bao dung.
Lãnh tụ các quốc gia phải biết trị dân với chánh đạo, vương đạo, biết dùng khoa
học để đem lại an ninh thịnh vượng no ấm cho dân. Lãnh tụ quốc gia không thể
lợi dụng quyền hành mà tham quyền cố vị, tham lam lợi lộc, nhắm mắt hy sinh mọi
quyền làm người của dân, no ấm của dân cho địa vị và hầu bao không đáy riêng
tư; dùng khoa học tạo khí giới hóa học, vi trùng, hạt nhân giết người hàng loạt
hòng làm bá chủ thế giới; nịnh dân để kiếm phiếu, đưa thanh thiếu niên lăn xả
vào chủ nghĩa hiện sinh với cuộc sống đồi truỵ mất hết ý nghĩa hạnh phúc an
lành quí báu cho cuộc sống của họ.
Giáo Hội Công Giáo (GHCG) La Mã trên bình
diện đất đai dân số là một nước thật nhỏ, nhưng trên bình diện thiêng liêng
GHCG hoạt động trên toàn hoàn vủ. GHCG có sứ mệnh tinh thần tối cao là dẫn dắt
nhân loại ngày càng đi đến chổ hoàn thiện hoàn mỹ. Và từ chỗ hoàn thiện đó, con
người dễ tìm gặp Thiên Chúa.
GHCG cần phải tích cực hoạt động một cách
năng nỗ thiết thực đặc biệt hơn nhiều để có thể đáp ứng hoàn cảnh xã hội sa đoạ
của quả địa cầu bệnh hoạn suy sụp ngày nay. Hiện tại theo tôi, GHCG không thể
chỉ ngồi làm việc lấy lệ, nhỏ giọt trước bao cơn bệnh trầm kha sa đoạ nặng nề
về mọi mặt của thế giới như lũ lụt dâng trào ngày nay. Đó là chưa kể hàng ngủ
giáo phẩm lại còn làm gương xấu, lợi dụng quyền tuyệt đối trên giáo dân toàn
thế giới, nhất định dành cho phái năm độc quyền làm linh mục. Trong buổi Thánh
tiệc ly Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh rượu trở nên chính Thịt và Máu Thánh
Chúa với ba câu nói « Nầy là Mình Ta các con hãy cất lấy mà ăn. Nầy là Máu
Ta các con hãy cất lấy mà uống. Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Ta.» GHCG
chỉ để cho giới nữ hưỡng 2 câu nói đầu của Chúa, GHCG cố tình giữ độc quyền câu
thứ ba. Chúa Giêsu không hề phân chia nam nữ. Trái lại Người rất trọng nữ giời,
phong Đức Maria làm vị Linh Mục đầu tiên, kêu gọi người đàn bà Samari đi loan
truyền «nước hằng sống» (Gioan 3:4-38), ngài đã sai đàn bà tội lổi ăn trở lại Madalêna
đi rao truyền «Chúa đã sống lại.» Tôi tự nghĩ nếu công việc làm phép bí tích
Thánh Thể phải vất vả khổ sở như việc tôi đòi thì đàn ông đã không dành dộc
quyền cho mình. Theo tôi, chỉ vì sự độc tài dành độc quyền chức linh mục, mà
Chúa Giêsu phải than «Lúa chín đầy đồng mà thiếu thơ gặt» trong khi ấy số
linh mục thoái hóa hư hỏng ngày càng tăng làm gương xấu cho cá linh hồn phải ra
hư mất.
Không một hội đoàn, cơ quan, không một nền
giáo dục quốc gia nào có thể thay thế sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao phó cho
GHCG của Người trên trần thế. GHCG mà chúng tôi nói đây không phải chỉ gồm các
vị Lãnh đạo tại Tòa Thánh La Mã mà là một GHCG hoàn vũ gồm toàn thể Kitô-hữu
trên trái đất trong đó có toàn thể giáo dân, có các anh chị em, có một số các
bạn làm việc trong VNN, có tôi. Vì vậy, dầu là phần tử nhỏ mọn đến đâu chúng ta
vẫn phải có bổn phận góp phần xây đắp GHCG Chúa Giêsu.
VNN : Theo niềm tin của nhiều Tôn giáo thì Thượng Đế dựng
nên vũ trụ và sinh ra con người vì chính Tình Yêu của Ngài nhưng tại sao trong
môi trường sống của con người đầy thảm hoạ bão lụt, động đất, sóng thần, cũng
như trong chính cơ thể con người vẫn luôn luôn đầy dẫy những mầm mống gây ra quái
thai, bệnh tật chết người như những bệnh siêu vi, mầm bệnh ung thư chẳng hạn.
Bác sĩ nhận định như thế nào về những vấn đề nầy?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Thiên Chúa
tạo nên quả địa cầu với mọi tự do hoành hành tự nhiên của nó và cũng có thể do tôi
lổi của con người tạo nên như lũ lụt, hồng thủy, động đất, hỏa diệm sơn, sóng
thần, mưa acide, môi trường, chiến tranh, hỏa lực, khí và chất độc hóa học… vv…
Thiên Chúa tạo nên những sinh vật trên quả đất, từ con cực siêu vi đến con
người, Ngài ban cho sự sống, vui vẻ, hạnh phúc, gian truân, đau khổ, bệnh hoạn
và sự chết không phải là điều xấu, trái lại nếu con người hiểu biết lợi dụng
tất cả thử thách thì đó là sự cứu độ. Đó là chương trình mầu nhiệm yêu thương
của Ngài. Tại sao vậy? Vì cuộc sống trần gian là một cuộc sống ngắn ngủi tạm bợ.
Đây là cả một cuộc thử thách ghê gớm cho loài người hoàn toàn tự do. Thử thách
cho người được mọi may mắn, xinh đẹp, mạnh khoẻ, hạnh phúc tình yêu, công danh,
phú quí, giàu có, và thử thách cho hạng người ngoại hình thua kém, tật nguyền,
không may mắn, khốn khổ, đau thương, nghèo nàn, đói rách, bị áp bức, bóc lột, bất
công, gặp nhiều tai ương, mạt vận…..
Tuỳ
theo bản chất, sức vóc thiên nhiên, hoàn cảnh sinh sống gia đình, xã hội, tài
năng, tài chánh con người của từng giai cấp, mà Thiên Chúa sẽ có sự phán sét
riêng biệt; ví dụ như cha
mẹ sẽ có sự xét đoán hoàn toàn khác nhau ‘về sai trái trong hành động hay công
việc’ đối với con cái xuất thân đại học và tiểu học hay mẩu giáo. Sự công bằng
của Thiên Chúa đối với loài người là tuyệt đối! Vì vậy không thể nói tại sao
Trời lại cho người nầy đẹp, giàu, tài hoa, địa vị mà kẻ khác lại xấu xí, ngu
dốt nghèo nàn thấp kém. Người nhận càng nhiều
thì càng phải phục vụ, phân phát ra nhiều, nếu không sự luận xử án phạt đối với
họ sẽ rất khắc nghiệt.
Đó là chương trình thưởng phạt đầy yêu
thương loài người một cách tuyệt đối công bằng trong thử thách của Thiên Chúa
để con người đi đến ‘‘hạnh phúc chân
thật vĩnh hằng’’, ‘‘hạnh phúc bất
ngờ và không tưởng’’ mà Thiên Chúa đã đặt sẵn chờ đón chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu Kitô đã nói :‘‘Người giàu có lên thiên đàng khó hơn con lạc đà đi qua
lỗ kim” là do vậy. Vậy thì phước hoạ ở đâu? Chúng ta đừng tưỡng giàu có, thông
minh, đẹp đẻ, phú quí là phước thật đâu ! Coi chừng nếu không biết xử dụng là
tai hoạ lớn lao, nặng nề ! Ngoài ra còn một vấn đề rất quan trọng: Bị xét xử lúc nào? Nếu bị xét xử nhãn
tiền tức ngay đời này là điều may mắn biết bao! Đó là do Tình Thương Yêu vô
cùng của Thiên Chúa. Nếu vì lý do nào đó, sự luận phạt đến sau cái chết, là hết
phương ăn năn sám hối, hết sức vô phước vì là đời đời kiếp kiếp!
Thiên Chúa không dựng trần gian với cuộc
sống “hạnh phúc vĩnh cửu
bất diệt”, trái lại, Ngài còn đòi “Kẻ nào
muốn theo Ta thì phải uống chén đắng với Ta (vác thánh giá, chịu đau khổ)”.
Đời sống trần gian chính thật là nơi thử thách, hạnh phúc trần gian chỉ là tạm
bợ, ngắn ngủi và là cuộc thử tài đức độ và thử lòng yêu mến tha nhân để xứng
đáng vượt đến một hạnh phúc vĩnh hằng mà loài người không thể nào biết trước
hay tưởng tượng ra như thế nào!? Sự thử thách trần gian chỉ là bước khởi đầu để
con người có xứng đáng bước vào hạnh phúc tuyệt vời vĩnh cửu hay không.
Bị bệnh, cách thức chữa bệnh, sống nghèo
đói, giúp người bớt nghèo đói, bị đau khổ, giúp người bớt đau khổ… tất cả đó
chỉ là những thử thách của Thiên Chúa khi Ngài cho con người hoàn toàn tự do.
Đó là tất cả những điều nằm trong chương trình mầu nhiệm tốt đẹp, vô cùng bất
ngờ của Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Trí óc và lý trí vô cùng hạn hữu
của tạo vật làm sao thấu triệt, làm sao hiểu được Thánh Ý của Tạo Hóa.
Chính vì thế mà sau bao nhiêu trăm ngàn năm
hay nhiều hơn nữa Thiên Chúa đã dựng nên con người trên quả đất, thử thách loài
người yếu đuối trước sự tàn phá của Satan, cuối cùng để phá tan sức mạnh cảu
Satan, Người đã nhập thế chỉ 2000 năm để làm người sống cuộc sống hèn hạ, chết
cái chết đau thương tận cùng; và liên tục ban mọi ơn phước, làm nhiều phép lạ
không ngừng từ xưa đến nay để khuyến khích và nâng đỡ loài người yếu hèn lên trước
mọi cám dổ của Satan mà sa đoạ.
Mọi Kitô-hữu trên khắp thế giới đều chỉ có
một Đức Tin bền chặt từ Thiên Chúa và vào Thiên Chúa y hệt nhau suốt 2000 nay
và còn kéo dài cho đến tận thế. Điều nầy chứng minh Thiên Chúa là Sự Thật, và Đức Tin vào Thiên Chúa là điều hạnh phúc vô
biên. Có thể nói rằng ngay trên cỏi đời nầy không có hạnh phúc nào, ví dụ
như hạnh phúc trong tình yêu nam nữ, gia đình, sức khoẻ, trí tuệ, công danh,
tiền tài, so sánh được với hạnh phúc có một Đức Tin nếu hiểu được giá trị hạnh
phúc Đức Tin. Hiện tại đa số nhân loại đang chúi đầu trong bóng tối đam mê xác
thịt tiền tài danh vọng, sát phạt nhau…, chưa vỡ lẽ được hạnh phúc Đức Tin nói
trên.
Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta đem chữ ‘hạnh
phúc trần gian’ để diễn tả ‘hạnh phúc thiên đàng’, thì có thể nói là trần gian
không có hạnh phúc bao giờ; và nếu đem ‘đau khổ trần gian’ so sánh với ‘đau khổ
hỏa ngục’ thì trần gian cũng chẵng có đau khổ gì cả. Sơ sơ thôi, tôi dám nói
rằng nếu ai đã từng ở tù CSVN thì sẽ hiểu không có sự đau khổ ngoài đời nào
sánh bằng. Nếu ai đã sống trong Mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa thì họ sẽ hiểu
nổi bằng an và sung sướng như thế nào dầu phải nghèo hèn. Hãy chờ đến thời kỳ,
chúng ta sẽ bất ngờ biết đến tất cả mầu nhiện yêu thương của Thiên Chúa vĩ đại
dường bao.
VNN : Nghiên
cứu khoa học nhằm khám phá và xác định sự thật hiện có trong thiên nhiên; trong
khi ý thức đạo đức hay tình yêu nhân loại – nhằm xác định một sự thật phải có
trong thiên nhiên. Phải chăng hai lãnh vực nầy có mục đích khác nhau? Và lãnh
vực nào đã chiếm ưu thế trong quá trình nghiên cứu Y khoa để tìm phương thế trị
bệnh ung thư cho hữu hiệu của Bác sĩ ? Khoa học không lương tâm chỉ là một sự
lụn bại của tâm hồn (Science sans conscience n'est que ruine de l'âme) có đúng
không trong thời đại văn minh tiến bộ hiện nay?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Thường thì khi có ‘cầu’, người ta mới
nghĩ đến ‘cung’. Từ việc tha thiết cho việc cái ‘cung’ đó mà con người say sưa
và đam mê đi tìm sự thật vốn sẳn có trong thiên nhiên để cung ứng cho cái ‘cầu’.
Tuỳ theo mục đích khi đi tìm cái cung để có thể đặt việc nghiên cứu trong lãnh
vực đi tìm sự thật cho sự thật, hay đi tìm một sự thật để phục vụ vì yêu
thương. Thường thì hai lãnh vực nầy hiếm khi đi riêng rẽ. Việc nghiên cứu trị
ung thư của tôi không nằm ngoài thường lệ đó, nghĩa là nghiên cứu để phục vụ
phần nào con người đau khổ cùng lúc đi tìm hiểu sự thật vì sự thật. Tất nhiên,
niềm vui và say sưa nghiên cứu sự thật giúp con người bất chấp mọi thiệt thòi.
Và ý thức đạo đức và tình yêu nhân loại vẫn là cách thúc đẩy con người nghiên
cứu say sưa. Vì vậy, hai lãnh vực nầy vốn rất hài hòa và bổ túc cho nhau để có
yếu tố tiến tới thành công it nhiều.
Nếu người ta làm khoa học chỉ để phá hoại,
trả thù, giết người, tranh dành quyền lực, tham lam lợi lộc cá nhân, thì nhân
phẩm con người đâu còn gì. Hiện có những người ra sức chế tạo nguyên tử hạt
nhân giết người hàng loạt hay những kẻ nghiên cứu thuốc phá thai giết hàng tỉ tỉ
trẻ em trong bụng mẹ. Cũng phải kể những kẻ ngồi nghiên cứu siêu vi phá máy
điện tử, nghiên cứu ăn cắp tiền ngân hàng qua máy phát tiền, máy thâu tiền,
nghiên cứu cờ bạc bịp để gian lận cờ bạc, tạo những phim dâm ô đưa vào mạng
lưới tự động để đẩy tuổi trẻ vào bùn nhơ, phá hoại gia đình, chế biến thuốc lắc
ma tuý rẻ tiền gây nghiện mau chóng đầu độc tuổi trẻ, tạo chương trình dạy trẻ
em học sex để dễ dàng lôi kéo chúng vào âm mưu ấu dâm v.v… chẳng những họ đã
đạp đổ tâm hồn họ xuống vực thẳm, mà họ có mưu đồ đạp đổ tuổi trẻ, loài người
đi theo. Ngoài ra họ còn bôi nhọ trí
tuệ thông minh nghiên cứu khoa học của
loài người, làm cho khoa học củ loài người trở thành phản khoa học, khoa học bệ
rạc, tiêu cực, thoái vị.
VNN : Hân hạnh đọc qua tiểu sử của Bác sĩ, chúng tôi được
biết Bác sĩ đã bị nhà cầm quyền CSVN giam tù gần 3 năm từ 1980 đến 1983 vì
chống tham nhũng. Xin Bác sĩ có thể cho biết rõ về sự kiện nầy như thế nào. Cho
đến nay chế độ CSVN ngày một tham nhũng một cách táo tợn thêm hơn. Theo Bác sĩ
nhận định, một chế độ tham nhũng như thế liệu có hy vọng chấp nhận sự hy sinh
cộng tác chân tình của những nhà khoa học chân chính như Bác sĩ để đưa đất nước
vươn lên không?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Sau 30/4/75, tôi quyết định không đi đâu
cả, dầu trước đó tôi đã học và làm bác sĩ tại Paris Pháp, và dạy Đại học tại
Moncton, NB Canada. Vì tôi biết từ 1963, lý thuyết cộng sản sẽ chủ trì Việt Nam
khi bọn Dương Văn Minh giết TT Ngô Đình Diệm. Nguyên từ đầu, cả tổ-dân-phố
chúng tôi đều đi học câu nói “Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư” của cụ Hồ,
tôi cũng đọc sách giáo huấn đảng và nhân dân của cụ cho từ công an, bộ độ, nhà
báo, nông dân, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng ... tôi thật tình khâm phục một
giáo huấn toàn diện cho một dân tộc như vậy. Thật tình, nếu đảng CSVN thi hành
đúng những lời giáo huấn đó thì nước Việt Nam sẽ tốt lành biết dường nào.
Chính vì tin vào sự ‘Cần kiệm, liêm chính,
chí công, vô tư’ của người CSVN, nên khi làm bác sĩ trong Khóm, trong Phường
trong Hội Trí Thức Yêu Nước, trong các công trường, các vùng Kinh tế mới, tôi
thấy thuốc men của nhân dân, của tập thể lao động công trường biến mất, tôi
phải lên tiếng. Tôi là người đầu tiên báo cáo về những mất mát tiêu cực cùng
những vụ tham ô khác tại những nơi tôi làm việc như hội Hồng Thập Tự, hôi Trí
Thức yêu nước. Cũng vì tôi thẳng thắn quá, viết đơn tố cáo khắp nơi, nên bị bắt
giam vào Chí Hòa. Nhưng tôi đã can cường nhất định khiếu nại lên tận Trung Ương
đảng suốt mấy năm trời ròng rã, và ông TBT Lê Duẩn đã cho điều tra, can thiệp
thả tôi ra và bồi thường danh dự cho tôi.
Đúng, ngày nay, tham nhũng trở thành táo
tợn ghê gớm, không phải vì đói nghèo mà
do lòng tham bạc tỉ đô la vô đáy. Vụ PMU 18 và vụ tham ô khai thác dầu ở Biển
Đông thật là những việc bán tổ quốc Việt Nam, ăn cướp của nhân dân một cách táo
tợn để lấy bạc tỉ đô la của một số đảng viên lảnh đạo cao cấp từ nhiều năm nay,
người bao che đều là đồng lõa. Họ đã đạp đổ tổ quốc, quyền sống của nhân dân mà
chọn tham ô bạc tỉ đô la. Ôi chao! sao mà ác ôn quá vậy. Rõ ràng họ là những
Việt gian bán nước rồi còn gì nữa! Tôi cảm thấy quá nhục nhã và đau đớn ê chề
khi thấy cán bộ đảng viên cao cấp giữ chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung
ương Chống Tham nhũng lại tham ô hàng trăm tỉ đô la trên tiền vay mượn để xây
dựng tổ quốc! Tội của họ quá nặng, nặng hơn cả tội hảm hiếp giết người, cướp
của hàng loạt, vì đây là tội họ đã phạm đối với tổ quốc Việt Nam và 85 triệu
đồng bào. Họ giữ chức vụ càng cao thì tội càng nặng, pháp luật nhất định phải
tịch thu toàn bộ tài sản để trả lại cho tổ quốc, cho nhân dân và lên án tử hình
chứ không thể chỉ kiểm điểm lấy công chuộc tôi.
Ai cũng biết sự tham nhũng tại Việt Nam lan
tràn khắp nơi. Nhiều năm qua báo chí đã lên tiếng rầm rộ về vụ thuốc ngoại lên
giá một cách ồ ạt khủng khiếp từ 100% đến 450% hoặc hơn nữa. Các cô dược sĩ cho
hay xem truyền hình về việc Quốc Hội chất vấn Bộ trưởng Y tế Trần Thị Trung
Chiến trả lời những câu hỏi về y dược, bà Bộ trưởng câm họng đã đứng khóc. Giới
bác sĩ giám đốc xây hàng loạt biệt thự sang trọng cho gia đình họ.
Riêng tôi, năm 2002, được Bằng Phát minh
của Cơ quan Tài sản Trí tuệ Canada, tôi lên đường về nước. Tại Sài Gòn, tôi
được hội kiến với một số bác sĩ, dược sĩ, khi nghe tôi trưng thư có hai viện
bào chế Canada và Đức muốn mua Bằng phát minh mà tôi từ chối để đem về nước, họ
khuyên tôi “nên bán đi, đem tiền về nước lót tay, lót đường rồi chị muốn làm gì
cũng được”.
Tôi buồn tủi lắm, ra thẳng Hà Nội trình bày
với Thủ tướng Phan Văn Khải. Sau đó,
ngày 9/1/2003 bà Bộ trưởng Y tế mời tôi ra Hà Nội họp bàn với Bộ. Tôi xin bà
giúp tôi làm việc ở TP HCM, bà lờ đi. Tại Sài Gòn, Bác sĩ Giám đốc Sở Y tế cho
tôi hay là Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, Giám đốc Viện Ung bứu TP, nói rằng “Chúng
tôi chưa sẵn sàng có chỗ cho chị làm việc.” Tôi thấy chướng ngại vật quá nhiều,
nhưng không nản. Sau đó, tôi được Bác sĩ Trương Thìn, Viện Trưởng Viện Y Dược TP tổ chức cho tôi thuyết trình và ký hợp đồng làm thực nhiệm lâm sàng
chữa bệnh nhân ung thư, cùng lúc Xí ngiệp Dược phẩm Trung ương 25 chấp nhận ký
hợp đồng chế thuốc. Thuố đã chế sẵn, bệnh nhận đã chọn, đùng một cái báo Tuổi
Trẻ đang bà ngày 3 bài liên tiếp đánh phá Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25,
Viện Y dược T/P HCM và cá nhân tôi. Tôi đưa đơn đi kiện khăp nơi nhưng không
được ai trã lời.
VNN : Chúng
tôi được biết Bác sĩ đã bỏ ra một thời gian rất dài để nghiên cứu về bệnh ung
thư. Xin Bác sĩ cho biết trong quá trình nghiên cứu đó, Bác sĩ đã gặp những
thuận lợi cùng những trở ngại như thế nào?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Nguyên lúc làm việc tại các bệnh viện
Paris và tại Phòng mạch tư 320 Phan Thanh Giản, Quận 10 Sài Gòn, tôi thấy có
nhiều triệu chứng bệnh nấm và ung thư giống nhau. Một trường hợp ung thư thịt
mông của một bà mẹ trẻ mà Bác sĩ Lý Hồng Chương cho làm sinh thiết (biopsie)
rồi chạy xạ trị mãi mà bệnh cứ gia tăng.
Khi bà ấy tìm đến, tôi trị thử, không ngờ bệnh lui dần và làm sẹo. Một cô gái
19 tuổi xinh đẹp con một nhà giàu, bị một ung thư lở ra trên mủi như miếng bả
trầu. BS GS Út trị mãi càng lở lói ra. Gia đình đem đến tôi trị. Thật là may
mắn bất ngờ, lành ngoài ước mong của tôi. Từ đó, tôi âm thầm trị ung thư cho ai
tìm đến tôi, vậy là về thực hành, tôi có một ít thành quả. Khi ra ngoại quốc,
tôi nghiên cứu thêm lý thuyết mới, thấy hoàn toàn hữu lý về phương diện lý
thuyết. Tôi viết bài giải thích tường tận về “Phát minh Nguồn gốc nấm của siêu
vi và tế bào ung thư” và trao cho các đồng nghiệp để biết ý kiến. Các bác sĩ đồng
nghiệp tại Mỹ, Canada và Việt Nam đều tâm đắc.
Tôi tiếp tục trị cho ai tình nguyện và
thành công ước độ 70, 80% nhất là ung thư vú, ung thư phổi, thịt và máu. Với
các kết quả lâm sàng đã có, tôi làm đơn xin bằng phát minh tại Hoa Kỳ và
Canada. Mỹ kỳ thị giam tôi không phát bằng, họ đòi tôi qua Mỹ cho họ phỏng vấn,
tôi không đủ phương tiện. Tháng 9/2002, Canada trao cho tôi Bằng Phát Minh Trị
Tận Gốc Ung Thư sau 5 năm khảo sát.
Tôi lên đường về Việt Nam, và sau nhiều vất
vã, Viện Y Dược học tại 273 Nguyễn Văn Trổi, Quận Phú Nhuận, tổ chức cho tôi
thuyết trình về Nguồn gốc ung thư và sửa soạn lo trị liệu ung thư miễn mọi phí
tổn kể cả thuốc trong 6 tháng cho 100 đồng bào nghèo bệnh nhân. Xí nghiệp Dược
phẩm Trung ương Quốc tế 25 tại 120 Hai Bà Trưng, lo chế thuốc tài trợ cho bệnh
nhân như tôi đã sơ lượt trên.
Chính vì vấn đề tiêu cực như trên đã nói
trong ngành y dược mà công trình vất vả của 4 thành phần chúng tôi: 100 đồng
bào bệnh nhân ung thư được nhận trị liệu miễn phí - Xí nghiệp Dược phẩm Trung ương 25 có chứng
nhận cấp quốc tế - Viện Y Dược Học TP
HCM - và tôi, khổ công sửa soạn suốt gần 2 năm. Vừa bắt tay trị liệu thì từ
trong bóng tối vùng lên một âm mưu tiêu cực phá hoại vô cùng tinh vi và hùng
mạnh:
Một phóng viên báo Tuổi Trẻ dùng 2 tên khác
nhau, NG.Quang tức Lê Thanh Hà, lợi dụng tờ báo uy tín và đông độc giả nhất
nước, viết 3 bài báo láo lếu, tung tin thất thiệt phá hoại ngay cả 2 cơ sở lớn
của nhà nước là Xí nghiệp Dược phẩm 25, và Viện Y Dược TP làm họ tức uất lên,
lại còn sinh mâu thuẫn mất đoàn kết giữa 2 cơ quan nhà nước. Cuối cùng, một bài
báo dài thứ 3 mạ lỵ cá nhân tôi và Bằng Phát minh Canada trị ung thư của tôi,
cố tình bóp chết cho kỳ được chương trình trị bịnh ung thư miển phí cho 100
đồng bào bệnh nhân. Tôi đã viết bài tố cáo khắp nơi nhưng vô vọng như đã nói
trên.
Giới bác sĩ, dược sĩ và dư luận cho tôi hay
rằng “Hiện rất nhiều tay tài phiệt việt kiều xin độc quyền thuốc men ngoại nhập
về Việt Nam, tự do làm giá, đem đô la mua chuộc giới Y tế và bác sĩ trong nước
bán thuốc móc ruột, thắt họng nhân dân, báo chí trong nước kêu la như sấm ầm ầm
bao nhiêu năm rồi nhưng đâu cũng hoàn đấy”… “Nếu thuốc trị ung thư của chị ra
đời thì còn ai bỏ hàng tỉ đôla ra mua thuốc hoá học tri liệu nhập cảng của họ
nữa; nên buộc họ phải hối lộ phóng viên và báo chí và ai nữa quật chết chị và
những ai cộng tác với chị.” Dân chúng nói rằng ngày nay không còn “nhà thương” nữa
chỉ còn “nhà ghét”.
Tất nhiên, cũng có những Việt kiều vì yêu
nước đem tài sức về kinh doanh giúp dân, nhưng không thiếu người về hại nước
bằng mọi thủ đoạn từ tình yêu đến tiền tài. Nhưng tôi phải khiếp đảm khi
hay tài phiệt Việt Kiều hải ngoại trở về
nước làm giàu, dùng bạc triệu đôla mua chuộc ngành y dược hại nước hại dân!!!
Tham ô trong nước đã ‘táo tợn’ như anh biết rồi, tài phiệt Việt kiều còn về cấu
kết với tham quan để giết dân thêm. Trời ơi trời hởi! Chỉ vì đồng đôla mà tài
phiệt Việt kiều nở ra tay dày xéo đất nước, móc ruột gan bệnh nhân ung thư đau
khổ, hút máu đồng bào bệnh nhân ung thư đói rách và gia đình họ một cách tán
tận lương tâm, giết hại mầm móng phát triển đất nước như vậy ư!!!
Tôi kính thưa quý vị, trước là VNN, sau là
toàn thể các Cộng đồng Người Việt hải ngoại, quý vị nghĩ sao về vụ tài phiệt
việt kiều ? Đây có phải là Việt gian
phản bội chủ nghĩa quốc gia không ? Quý vị có suy nghĩ nào, phán đoán nào,
đường lối nào, hành động nào ngăn chặn được tệ nạn xã hội về sức khoẻ của toàn
dân Việt trong nước hiện tại không ? Tôi tha thiết kêu đến quý vị SOS !!! Đây là một việc làm cứu dân cứu nước cấp
bách mà chỉ có các cơ quan truyền thông và CĐNGHN có đủ tư cách, thẩm quyền
hành động hiệu quả. Trong rất nhiều năm, báo chí trong nước đã la lối ầm ỷ,
Quốc Hội đã họp đi họp lại, bàn tán sôi nổi nhiều lần, giới dược sĩ nắm vững
vấn đề, thì không còn đòi hỏi bằng chứng nào nữa.
Riêng cá nhân nhỏ mọn tôi, quý vị thử nghĩ,
nếu không do hối lộ để phái hoại, tại sao một phóng viên báo Tuổi Trẻ mà tôi
chưa từng biết mặt phải bỏ công sức theo dõi và phá hoại chẵng những riêng tôi,
mà quan trọng là 2 cơ sở lớn của nhà nước và đặc biệt là 100 bệnh nhân ung thư
khốn khổ ? Cũng như những bao che khác, hiện phóng viên NG. Quang tức Lê Thanh
Hà của báo Tuổi Trẻ được bao che kỹ, tại sao vậy? Vấn đề tiêu cực ở đây sâu
rộng lắm lắm! Tuy nhiên, vì lương tâm và Đức Tin, tôi nhất quyết sẽ lo việc chế
thuốc trị ung thư cho đồng bào bệnh nhân khốn khổ, dầu tài phiệt Việt kiều có
giết, tôi cũng đành.
VNN : Những khám phá mới của Bác sĩ về bệnh ung thư như thế
có thể được xem như đã tìm ra nguồn gốc hay trạng thái thiên nhiên của bệnh ung
thư không? Và như vậy phải tri liệu như thế nào?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Đúng như thế. Như trên đã nói, tôi đã
chứng minh trị liệu thử, sau đó bằng lý luận qui nạp để đưa ra một lý thuyết
vững chãi và rõ ràng về nguồn gốc tế bào ung thư (xin đọc tiếp bài nói về ‘Nguồn
gốc nấm của ung thư’). Khi đã biết rõ nguồn gốc nấm của siêu vi và ung thư thì
chúng tôi chỉ cần dùng thuốc-chống-nấm-chống-ung-thư để tận diệt các tế
bào ung thư rải rác khắp nơi trong cơ thể. Nếu chỉ còn một tế bào là ung thư sẽ
tái phát sớm hay muộn ngay. Chúng tôi đã dùng một hổn hợp thuốc sinh học không
độc trong thời gian dài từ 12 đến 18 tháng để có một sức mạnh tối đa tiêu diệt
tế bào ung thư toàn vẹn.
Ví dụ với ung thư vú, vào thời gian đầu còn
là bứu hiền nghĩa là mới xuất hiện chưa có di căn rõ rệt, rất dễ trị, chúng tôi
chi cần chích thuốc vào cục bứu, nó sẽ teo tóp dần và biến mất, khỏi lắt vú như
trước nữa. Ngoài ra, phải uống thêm thuốc trong một thời gian khá dài để trừ
hậu hoạn.
VNN : Xin Bác sĩ giải thích cho biết rõ thêm về những khác biệt căn bản giữa
phương pháp trị ung thư bằng hổn hợp thuốc sinh học (Biologique) do Bác sĩ phát
minh với các phương pháp trị ung thư hiện nay như hóa trị, xạ trị hoặc cắt bỏ
v.v..?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Xin nói rõ thêm về việc trị ung thư trên
căn bản trị tận gốc : Rất đơn giản, khi đã chứng minh nguồn gốc nấm của ung
thư, thì chỉ cần dùng thuốc trị-nấm-diệt-ung-thư. Chúng tôi đã thành công trong
việc làm thử nghiệm lâm sàng. Chúng tôi rất mừng mà thấy rằng thuốc chống nấm
sinh học không phá hoại tế bào cơ thế như xạ trị và nhất là hóa trị. Như với
ung thư vú nói trên, chích thuốc vào là ung thư tan dần ngay, nhưng phải uống
thêm thuốc để ngăn ngừa di căn về sau.
Thuốc sinh học tức là thuốc có nguồn gốc
động vật và thực vật, tuyệt đối không dùng đến chất độc hóa học. Các chất sinh
học thiên nhiên đối với tế bào cơ thể cùng chung thể chất, cùng dòng giống sinh
vật thiên nhiên (partenaire normal) nên gọi là thuốc sinh học (médicament
biologique). Chất sinh học hiền, không tiêu diệt tế bào cơ thể, và cũng chẵng
làm phiền luỵ chúng. Tuy nhiên, khi bệnh nặng uống liều cao, thần kinh bị kích
thích thì có thể sinh khó chịu, phải có thuốc giải.
Vấn đề cắt bỏ ung thư chỉ có hiệu quả khi
ung thư còn là bứu hiền nhỏ, chứ khi ung thư đã sinh di căn thì giải phẩu ít có
giá trị kéo dài sự sống. Đó là chưa nói đến nhiều trường hợp không thể giải
phẩu được. Riêng về xạ trị và hóa trị, vì không có cách nào hơn, vì cho đến nay
Y khoa (ngoài cá nhân tôi) hoàn toàn không biết nguồn gốc ung thư và cách chữa
trị hợp lý, nên bất đắc dĩ họ dùng hóa trị kịch độc. Tôi buồn mà nói lên sự thật là những tia xạ trị và đặc biệt là chất
hóa học trị liệu kịch độc vô cùng luôn luôn tiêu diệt tế bào cơ thể mau chóng
và hiệu quả hơn là giết tế bào ung thư. Hóa trị lại mau lờn thuốc và đắt
tiền một cách rất dễ sợ, muốn trị là phải bán nhà, bán đất, đi vay mượn rồi là
vẩn tử vong và tử vong!
Nếu ung thư vào thời kỳ sớm thì đời sống có
thể kéo dài, nhưng sự kéo dài sự sống là do sức đề kháng con người còn mạnh chứ
không thể do hóa trị, vì ai cũng biết chất hóa học là nguyên nhân sinh ung thư.
Người ta hiểu lầm, lấy độc trị độc chỉ có nghĩa trong việc chích các thứ thuốc
ngừa «vaccins ». Dân Việt ta và các nước đang phát triển đâu được bảo hiểm
như các nước văn minh. Lại dầu có tiền để dùng hoá trị, khi ngưng thuốc ung thư
lại phát triển mạnh hơn. Dầu cho hóa trị có hiệu quả ít nhiều đi nữa, tuyệt đối
hóa trị khó dùng vì rất đắt tiền kinh khiếp, không thể nào phù hợp với túi tiền
của người dân Việt ta và dân các nước đang phát triển, thường họ bị tan gia bại
sản và bệnh nhân thì tử vong.
VNN : Như vậy, theo nhận định của Bác sĩ, làm cách nào để
việc điều chế thuốc hổn hợp sinh học nầy được dễ dàng và cung ứng đầy đủ cho
nhu cầu chữa trị ung thư, nhất là cho những bệnh nhân nghèo?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Thật ra việc nầy rất đơn giản, thứ nhất
cần đừng có bàn tay tài phiệt Việt kiều hải ngoại và báo chí nhúng vào phá
hoại, thứ hai cần sự cho phép chế thuốc của bộ Y tế. Và muốn mau chóng thì cần
quảng cáo trên báo chí. Thật ra, các Xí nghiệp Dược phẩm xin phép chế thuốc rất
dễ dàng. Riêng với thuốc trị ung thư, vì tầm quan trọng của nó nên mới bị tài
phiệt phá hoại. Hiện tại cần theo đúng thủ tục của từng quốc gia : quốc gia nào
đòi hỏi thử nghiệm lâm sàng ngay trong quốc gia đó. Theo chúng tôi thì cần thử
nghiệm trong thời gian ngắn cho một số bệnh nhân để chứng minh hiệu quả trị
liệu. Nếu thành công, xin phép Bộ Y tế chế thuốc đại trà, đại qui mô cùng hướng
dẫn các bác sĩ trị liệu là xong. Nhưng khốn nổi, riêng tại Việt Nam, mọi việc
của tôi dầu được ủng hộ cũng vẩn chậm hơn rùa nữa, chứ nếu tài phiệt Việt kiều
dùng đôla tham ô phá hoại thì ‘ô hô ai tai!!’. Nhưng dầu bị tai ương tứ bề, tôi
cương quyết vẩn trông cậy, và nhất định tiến hành đến chết tôi cũng không nản
chí. Hiện tại, bất đắc dỉ tôi đang làm một việc rất khó khăn là trị ung thư cho
đồng bào từ xa với thuốc tạm mượn tạm
chế, thật là vất vả khổ sở, nhưng biết làm sao khi thấy BN ung thư và
gia đình đang quằn quại trong đau thương. Có một việc ít ai để ý, sự cạnh tranh
về chế thuốc và thị trường bán thuốc đối với giới tài phiệt là sinh tử. Tiền
tài là sức mạnh.
VNN : Trong cuộc phỏng vấn mới đây của Báo Ngày Mới Paris,
Bác sĩ có nói rằng bệnh ung thư ngày nay lan tràn hơn xưa. Xin Bác sĩ cho biết
căn cứ vào những yếu tố nào để xác định như thế trong khi y khoa thế giới đã có
những tiến bộ rất xa so với trước?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Đây là một sự kiện rất thực tế. Có 4 lý
do: Trước đây vì thiếu phương tiện chẩn đoán, người ta cứ cho là chết vì bệnh
già. Lý do thứ 2 : Khắp nơi trong không khí và trong cơ thể mọi sinh vật đều có
vi trùng (microbe) gốc động vật và siêu vi (virus) siêu nấm, nấm người ta cũng
gọi là vi khuẩn gốc thực vật. Đây là hai loại sinh vật độc bào khác nguồn gốc,
chúng diệt nhau. Thường vi trùng diệt siêu vi và vi khuấn. Nên khi vi trùng bị
tiêu diệt do thuốc trụ sinh thì siêu vi vùng lên gây ung thư. Lý do thứ 3 là
môi trường sinh sống và thức ăn uống ngày càng đầu độc con người sinh bệnh ung
thư. Lý do thứ 4 là đời sống gia đình xã hội văn minh thay đổi về mọi mặt, từ
tình yêu hôn nhân, công ăn việc làm, tiền tài, quyền lợi danh vọng, sinh ra
nhiều ưu tư phiền muộn đau khổ mãn tính, mà người Mỹ mới gọi là tress sau nầy nhưng
chũ tress chi có tính cách cấp tính, ngắn hạn, khiến sức đề kháng của cơ thể bị
sút giảm mà sinh ung thư.
Gần 100 năm qua, toàn thế giới dùng trụ
sinh, mọi loại chất độc diệt gần hết mọi vi trùng của các chứng bệnh cho người,
súc vật và rau ráng cây cỏ và vi trùng trong đất đai, nhưng không diệt được
siêu vi. Khi vi trùng chết hết thì siêu vi trổi dậy. Vả lại, thuốc trụ sinh và
các chất độc hoá học làm cơ thể mọi sinh vật trên trái đất mất một số lớn sức
đề kháng tự động. Đó là 2 trong những lý do mà ngày nay bệnh ung thư và bệnh
siêu vi, kể cả HIV, làn tràn khắp thế giới mà nhất là cho người Việt trong và
ngoài nước. Đây là cơ hội tốt cho siêu vi, siêu nấm phát triển mạnh mẽ để đột
biến một tế bào cơ thể nào đó, bệnh hoạn, thương tật, hấp hối hay vừa chết
thành tế bào ung thư. Các bệnh siêu vi thú vật như bò điên, lở mồm, lở móng,
cúm gà v.v… lây lan từ súc vật qua người cũng ầm ầm mọc lên khắp thế giới cũng vì một lý do trên.
VNN : Cũng trong cuộc phỏng vấn với báo Ngày Mới Paris,
Bác sĩ đã cho biết: ung thư được hình thành dưới một hình thức gọi là ''Sự đột
biến của siêu vi''. Xin Bác sĩ có thể giải thích rõ thêm về sự đột biến nầy.
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Sự đột biến (mutation) tức là biến đổi đột xuất, nghe qua có vẻ phức tạp nhưng
rất đơn giản: siêu vi là sinh vật rất nhỏ chỉ nhìn thấy qua kính hiển vi điện
tử. Nó chỉ gồm có nhân mà thôi, và dứt
khoát nó chỉ có thể sống ký sinh trong tế bào thực vật hay động vật. Trong đời
sống ký sinh trong tế bào cơ thể thường trực, chúng sinh sản mau lẹ, và cũng bị
tiêu diệt mau lẹ nên chúng không sinh bệnh được (xem hình 1). Nhưng gặp lúc tế
bào cơ thể bị đầu độc, bị thương tật, bị bệnh hoạn, hấp hối, hay vừa mới chết,
tế bào bị mất mọi sức đề kháng (xem hình 2) - thì lập tức siêu vi đang ký sinh trong
tế bào liền nhập chung vào nhân tế bào cơ thể, vì nhân tế bào và siêu vi cùng
một thể loại như dầu với dầu nên sự sát nhập làm một với nhau (intégration) dễ
dàng (xem hinh 3) để làm thành một nhân
“gene” sống động mới hoàn toàn (xem hình 4).
Nhân mới đó chiếm luôn phần nguyên sinh
(cytoplasme) của tế bào mà tạo nên tế bào mới, đó là tế bào ung thư đầu tiên,
nó là một sinh vật độc bào riêng rẻ, có số nhiễm sắc thể lớn hơn nhiễm sắc thể
của tế bào cơ thể con người là 46, sống độc lập, tự do sinh sản, phát triển
nhanh chóng (xem hình 3): Đó là hiện
tượng đột biến tế bào ung thư do siêu vi phát động. Trong mọi cơ thể con
người già trẻ, lớn bé, luôn luôn có sự đột biến từ tế bào cơ thể thành tế bào
ung thư. Nhưng nhờ sức đề kháng cơ thể mạnh giết ngay tế bào ung thư mới sinh.
Nên để phòng ngừa ung thư việc cần thiết là nên làm mọi các đề nâng cao sức đề
pháng cơ thể đặc biệt là phải biết tiêu diệt mọi ưu tư buồn khổ, phiền muộn nơi
lòng mình, vì thế nghị lực coi như là một sức khỏe mới.
Hình 1 Hình
2
Hình 3 Hình 4
VNN : Bác sĩ đã tìm thấy rằng tế bào ung thư từ tế bào cơ
thể sinh ra nhưng nó không còn là tế bào cơ thể nữa. Đây là một điều hoàn toàn
mới, xin Bác sĩ giải thích rõ thêm về vấn đề nầy.
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Sau khi có hiện tương đột biến như nói
trên, tế bào mới sinh ra có ‘gene’ riêng biệt mới hoàn toàn của nó. Vì sao vậy
? Tế bào ung thư mới có số nhiễm sắc thể
(chromosomes hay ADN) mới khác với tế bào cơ thể là 46. Vì nhiễm sắc thể (NST) tế
bào ung thư là tổng hợp của NST tế bào cơ thể cọng với NST siêu vi; tất nhiên
nó phải lớn hơn số NST tế bào cơ thể là 46. Khoa học đã chứng minh số NST hay
ADN của mổi sinh vật, động hay thực vật đều khác nhau. Số NST nầy là căn bản mà
ngừoi ta gọi là ‘gene’ di truyền của mổi một sinh vật trong đó có siêu vi và
cực siêu vi. Vậy NST của tế bào ung thư = 46 (số NST của người) + X (NST của siêu
vi) > 46 (dấu ‘>’ là dấu hiệu chỉ lớn hơn). Vậy tế bào ung thư không còn là tế bào cơ thể, nó trở thành một giống
sinh vật mới, sống đời sống hoàn toàn độc bào, tự do sinh sản, tự do sinh nhiều
ra, đóng cục lại thành bứu, hay rơi rụng ra bị cuốn theo dòng máu và bạch huyết
đi khắp cơ thể, đến bất cứ đâu bị giữ lại thì sinh sản tiếp, đóng cục tiếp
thành di căn; chứ không như tế bào cơ thể có đời sống đa bào (trừ hồng
huyết và bạch huyết cầu) sinh sản có hạn định theo mệnh lệnh trung ương thần
kinh.
Tế bào ung thư đột biến sinh sản ra những
sinh vật độc bào ký sinh trong cơ thể không gây nên triệu chứng sưng đỏ hay đau
nhức gì cả. Nhưng cơ thể biết chúng là những sinh vật độc bào không còn thuộc
về cơ thể, nên cơ thể huy động các mô đến bao vây để tiêu diệt tế bào ung thư
(xem hình 5). Nếu sức đề kháng của cơ thể mạnh, tế bào ung thư bị bao vây và bị
tiêu diệt ngay. Hiện tượng nầy xẩy ra trong con người chúng ta liên tục, luôn
luôn hằng ngày không trừ ai. Nếu cơ thể không tiêu diệt tế bào ung thư được, nó
lớn mạnh lên, vòng vây cũng lớn lên, Y
khoa chính thống thế giới hiện nay gọi đó là bứu hiền (xem hình 5), nhưng chúng
tôi cho đó là ung thư giai đoạn 1. Khi cơ thể không tiêu diệt được nó,
thì nó lại phá vòng vây, đóng thành bứu (xem hình 6 và 7), và bung ra theo dòng
máu và bạch huyết lan khắp cơ thể rất nhanh để sinh di căn gần (xem hình 8) và
những di căn xa (xem hình 9). Vì vậy, nếu chậm một tíc tắc, thì dầu có cắt bỏ
vẫn có di căn. Bệnh ung thư chính thực là bệnh tổng quát chứ không phải bệnh
cục bộ, vì thế giải phẩu xạ trị chỉ có tính cách tạm thời.
Hình 5
à
Hình 6
Hình 7
H. 8 : Di căn gần của u vú H. 9 : Di căn tổng quát xa của
u tử cung
VNN : Kính thưa Bác sĩ, nhà cầm quyền CSVN không
thể chối bỏ được trách nhiệm chủ yếu đã gây nên tình trạng nghèo khổ và tụt hậu
nghiêm trọng hiện nay của đất nước Việt Nam, tham nhũng lan tràn, môi trường
sinh thái bị hủy hoại trầm trọng gây ra đủ thứ tật bệnh hiểm nghèo cho người
dân Việt Nam... Trong bối cảnh tệ hại như vậy, ước nguyện chữa bệnh ung thư cho
đồng bào ruột thịt nghèo khổ nầy của Bác sĩ liệu có thể thành tựu được không?
Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh : Ở đây, tôi xin không nói về chính trị.
Nhưng vấn đề tham nhũng trong nước, chẵng hạn vụ dầu khí ngoài Biển Đông, và vụ
PMU 18 mới đây, không người Việt nào, quốc nội cũng như hải ngoại mà không đau
đớn đến tận xương tuỷ và cảm thấy quá sức nhục nhã trước thế giới. Môi trường
sinh thái nước ta cũng chưa được luật pháp điều chỉnh nên các hảng xưởng thiếu
tôn trọng nghiêm túc, khiến sức khoẻ nhân dân bị suy sụp, và nông hải sản bị hư
hại nặng nề, và bệnh ung thư cũng do đó mà lan tràn và trở thành rất ư là khó
trị vô cùng.
Thêm nữa, thời gian trị ung thư tức là diệt tận gốc tế bào ung thư cần phải cấp
bách, và phải kéo dài từ 12 đến 18 tháng như trị ho lao trước đây, vì cũng phải
dài gần như thời gian mà ung thư đã được sinh ra. Và phải trị liệu thật liên
tục và nghiêm túc; chứ không phải chỉ uống thuốc trong 10 ngày, nửa tháng
như trị viêm vi trùng. Vì thế nên thuốc tuy không độc và rẻ thật, nhưng việc
trị liệu lâu dài và nghiêm túc đòi hỏi nhiều công phu, khó khăn, tốn kém nhất
là cho người nghèo và người đơn cô.
Tuy tham ô táo tợn tràn lan, tôi vẫn mong
rằng trong chính quyền Việt Nam hiện tại cũng còn những người thanh liêm, họ
biết lo cho đời sống dân chúng nghèo khổ. Qua những người nầy, tôi mong ước nhà
nước nói chung và Bộ Y tế mới sắp tới nói riêng sẽ giúp cho bệnh nhân ung thư,
giúp cho các cơ sở nhà nước làm thử nghiệm lâm sàng và chế thuốc trị bệnh.
Thuốc trị ung thư chế ra chẵng những bán trong nước mà còn có thể xuất cảng ra
khắp nơi trên thế giới.
Hiện nay người Việt quốc nội hay hải ngoại
cũng điều mắc phải bệnh ung thư rất nhiều do hậu quả đã sống trong môi trường
chiến tranh lâu năm so với các dân tộc khác. Tôi vô cùng nóng lòng từ mấy năm
nay, và cũng rất đau khổ là chưa thể cung cấp thuốc điều chế qui mô rẻ tiền cho
đồng bào BN ung thư nhất là đồng bào nghèo. Trong khi chờ đợi tôi chỉ có thể
trị miễn phí và cung cấp thuốc ‘tạm
mượn tạm chế’.
Nếu tài phiệt giàu có hải ngoại tiếp tục
dùng đôla ám hại tôi cùng đồng bào BN thì ‘Ô Hô Ai Tai’, biềt bao giờ mới có
thuốc rẻ tiền trị cho đồng bào BN đau khổ ung thư đây ? Các Xí nghiệp Dược phẩm
muốn xin phép bộ Y tế chế bất cứ thuốc gì cũng dễ dàng. Nhưng với tầm quan
trọng chế thuốc trị ung thư tận gốc, nhẹ nhàng rẻ tiền, nguyên liệu sẳn có, lại
gặp phải chướng ngại vật nặng nề. Tại sao vậy ? Tại VN, thuốc trị ung thư vô
hiệu quả thì chế bán dẩy đầy. Quý vị tự hiểu ngay tại sao? Nạn nhân của tài
phiệt Việt kiều là BN ung thư quốc nội và hải ngoại chứ chẵng phải là riêng gì
ai.
VNN : Kính thưa bác sĩ, trong quá trình khảo sát để cấp “Bằng Phát Minh Về
Phương Pháp Trị Tận gốc Tuyệt Căn Bệnh Ung Thư” Chính phủ Gia Nả Đại đã quan
tâm đến những điều gì nhất trong công trình nghiên cứu của bác sĩ ?
BS Nguyễn sĩ Nguyễn Thị Thanh : Năm 1994 tôi nghiên cứu tài liệu y khoa
để viết rồi trao bài ‘Phát minh nguồn gốc nấm của siêu vi và tế bào ung’ cho
vài người bạn khoa học. Họ rất tâm đắc với các suy luận chứng minh của tôi và
khuyến khích tôi xin bằng Phát Minh. Khi tôi đem tài liệu đến một Hảng lớn
chuyên làm bằng phát minh. Họ đòi 20.000$, nhưng sau khi họ xem tài liệu xong
họ bằng lòng bớt cho tôi 50%. Họ bảo cần tìm người có khả năng đặc biệt mới
viết được bài về bằng phát minh (BPM) nầy được. Tôi xin cộng tác, họ từ chối.
Cuối cùng một luật sư kiêm tiến sĩ Sinh học (Biologie)
nhận công tác viết bài. Sau khi đọc hết tài liệu của tôi ông ta bảo tôi : “Với
công trình nầy bà phải có giải Nobel mới được.” Tôi cười nói có lẻ 100 năm sau
khi tôi chết rồi may ra. Ông ta rất thích thú làm việc cho tôi và nhờ tôi cho ý
kiến cộng tác.
Thư qua thơ lại với Washington D.C. suốt 5 năm, cứ mổi
cái thư tôi phải trả thêm 500$US đến độ tôi cạn túi luôn. Trước hết Washington
CD. tìm kiếm xem trong tài liệu sách báo thế giới từ xưa đến nay có ai đã có ý
kiến hay nói câu gì giống ý tưởng của tôi, tức là có ý kiến đi trước tôi không?
Người ta đã tìm được nhiều nhà khoa học dùng nhiều chất hoá học và cây lá trị
nấm, ung thư và HIV, nhưng cách trị liệu của họ chỉ tạm bợ, không dựa trên
nguồn gốc để trị lành tuyệt căn ung thư như tôi. Tôi phải tranh luận để giữ
quuyền phát minh của mình. Sau đó họ mới đi vào vấn đề bắt bẻ hạch sách tôi
cùng cực. Tôi phải lý luận trả lời cụ thể, mổi lần họ bắt bẻ bằng thư là phãi
trả tiền. Sau khi hết bắt bẻ bằng thư, họ xây qua bắt bẻ bằng điện thoại, vì
Anh ngữ của tôi rất xoàng (lời nói không bằng chứng để ức hiếp tôi). Mỹ nói ẩu
lên rằng thuốc tôi trị ung thư đã có người đưa ra trị trước, tôi xin viết bằng
thư họ không viết. Họ đưa ra 4 bằng phát minh cuối cùng là giống tôi và đã đi
trước tôi. Tôi phải nổ lực đọc kỷ tìm cho ra điểm là họ không giống tôi. Tôi
chứng minh là không có ai đi trước tôi cả, tôi là người sáng tạo đầu tiên, cuối
cúng Washington DC chịu Patent of Invention Bằng Phát Minh của tôi. Và tôi phải
đưa ra nhiều Hồ sơ bệnh nhân lành bệnh, bằng chứng cụ thể trị lành bệnh. Tôi
phiền muộn vì thấy họ cố kiếm chuyện làm khó dễ. Cuối cùng họ mời tôi qua Mỹ để
làm Interview, thiếu tài chánh tôi không đi được, đành ngưng lại. Hiện tại muốn
tiếp tục bên Mỹ phải có nhiều tiền để trả tiền phạt.
Trong thời gian đó tôi cũng xin Canada Bằng Phát Minh
bằng tiếng Pháp, tôi tự làm lấy, nhờ cũng có chút ít kinh nghiệm. Cơ quan Tài
sản Trí tuệ Canada ở Ottawa tỏ ra quí tôi. Tôi cũng bị nhiều sách hạch như đối
với Hoa Kỳ, nhưng chính phủ Canada tỏ ra quí phát minh của tôi. Nhiều người VN
vô danh điện thoại đến mạ lỵ tôi là làm phát minh láo, điên, bịp. Tôi đã có lần
chán nản quá đã bỏ cuộc cho xong. Chính phủ Canada lại viết thư khuyến khích
tôi tiếp tục, họ bảo tôi chỉ cần đóng 1 số tiền phạt để tiếp tục. Tôi tiếp tục.
Vài người bạn chế riểu tôi, tỏ vẻ không tin tôi có thể xin được BPM trị ung thư
tuyệt căn tận gốc. Họ bảo cả thế giới tiêu pha hằng trăm tỉ đôla trong nửa thế
kỷ mà đành bó tay, chị làm gì được, nếu trị ai lành thì đó chẵng qua là tâm lý,
dầu có bằng chứng xét nhgiệm của bịnh viện Hoa Kỳ.
Những bằng chứng cụ thể thiết thực trước mắt tôi là
ung thư tóp lại, biến mất, nhiều lúc tôi mừng đến sửng sốt, ví dụ: người gần
chết, được tôi chữa trị trong 6 tháng, chổi dậy đi làm, làm cho tôi như mơ như
tỉnh, như tin tin ngờ ngờ, rồi lại tin tưởng mạnh. Tôi vững tin như giải đáp
một bài toán (tôi vốn giỏi toán học), không thể sai đâu được. Tôi cương quyết
tiến đến cùng. Ban giám khảo Canada xét bằng tiếp tục đòi hỏi tôi cung cấp thêm
mãi mãi tài liệu cụ thể, tôi cố làm hết sức mình theo ý họ đòi, trả lời mọi yêu
sách của họ bằng tiếng Pháp đến tận kỳ cùng. Họ họp mãi. Ban giám khảo dựa trên
bệnh nhân ung thư đã được trị lành cụ thể và cũng dựa trên bài viết về “Phát
minh nguồn gốc nấm của siêu vi và ung thư” của tôi để nghiên cứu và khảo sát hạch
hỏi. Mấy lần ông chánh chủ khảo báo tin cho tôi biết là xong rồi, nhưng sau khi
họp để tra xét lại thì không được. Cứ thế kéo dài ngày tháng. Ông chủ tịch Ban
giám khảo về Y khoa và Khoa học tỏ ra ủng hộ phát minh của tôi. Vậy là từ khi
nạp đơn xin bằng năm 1997 bên Hoa Kỳ và Canada mãi cho đến 15/9/2002 Canada mới
chính thức phát Bằng Phát Minh cho tôi.
BPM gồm 12 trang giấy bằng tiếng Pháp (tôi dịch ra
Việt) nên không tiện đưa ra đây. Nhưng nếu
ai muốn nghiên cứu tôi sẽ gởi riêng người đó qua Email vừa BPM vừa bài
về “Phát minh nguồn gốc nấm của siêu vi và ung thư”. Tất cả sẽ được xuất bản
bằng 3 thứ tiếng Việt Pháp Anh.
VNN : Xin Bác sĩ một câu hỏi cuối : Là một nhà khoa học lại
là một người có Đức Tin Công giáo sâu đậm, Bác sĩ có gì muốn chia sẻ thêm với
Giới Trẻ Việt Nam hải ngoại?
BS Nguyễn sĩ Nguyễn Thị Thanh : Sống và làm việc với và trong tinh thần
Kitô hữu, giữa tình hình thế giới và đất nước hiện tại, tôi có một ước nguyện
đối Giới Trẻ Việt Nam chẳng những hải ngoại mà ngay cả trong nước : Nước Việt
vốn thật đã có trên 4000 năm văn hiến với đạo đức siêu việt, có thuần phong mỹ
tục, lấy ôn nhu, vị tha làm mẫu mực cho đời sống do tổ tiên Bách Việt ngàn xưa
để lại. Đó là nền văn hóa tinh thần cao quý nhất của Tộc Việt, đó cũng là những
đức tính căn bản, cần thiết nhất để kiến tạo một thế giới an hòa, no ấm cho
nhân loại. Chính Đức Khổng Tử đã sao chép lại những đức tính cao đẹp của nền
văn hiến Bách Việt này trong nhân dân nam man khi Tàu Mông Cổ xâm chiếm nước
Xích Thần của Đế Lai và nước Xích Quỉ của Lạc Long Quân và Ấu Cơ làm cho vợ
chồng phải xa cách (Lạc Long Quân chết hạy dã chạy ra Thái Bình Dương cùng một
số thân thuộc mà huyền thoại gọi là 50 con) và con cháu bà là các vua Hùng, để
làm nền tảng phát triển cho một nền văn hóa lớn lao của Trung Hoa sau nầy. Vì Hán
Tàu nguyên có nguồn gốc Mông Cổ, lấy sức mạnh xâm lăng làm cứu cánh cuộc sống.
Những
di sản tinh thần đạo đức bất diệt của tổ tiên Bách Việt nông nghiệp chúng ta,
của loài người lành mạnh để lại không bao giờ có thể trở nên ‘‘hết thời’’ hay
trở thành hủ lậu. Vì thế,
tôi ước mong Tuổi Trẻ Việt Nam ngoài cũng như trong nước biết giữ lấy văn hóa
tinh thần Việt tộc, đừng bắt chước người, bỏ đi văn hóa dân tộc mà lăn xả vào
chủ nghĩa hiện thân với cuộc sống sa đọa, trác táng, coi thường luân thường,
trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Tổ tiên Bách Việt truyền lại. Tuổi
trẻ cần sống với tinh thần dân tộc trong sáng đó. Có như vậy Tuổi Trẻ Việt Nam
hải ngoại mới mong góp phần tích cực và hữu hiệu cho một Việt Nam lành mạnh, no
ấm, đồng sản, thực sự dân chủ, phú cường trong tương lai.
Võ Triều Sơn : Đại diện cho thông tấn VNN, tôi xin cảm ơn Bác
sĩ Nguyễn Thị Thanh đã dành nhiều suy nghĩ và thì giờ quý báu để chia sẻ rất
chân thành nhiều vấn đề cùng quý độc giả của VNN trong bài phỏng vấn rất hữu
ích nầy. Xin kính chúc Bác sĩ cùng quý quyến luôn được nhiều sức khoẻ và sớm
thành công như ước nguyện.
Nhân đây, VNN chúng tôi rất hân hạnh
giới thiệu đến quý độc giả địa chỉ liên lạc với Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh và Trung Tâm Quốc Tế Chữa trị Ung thư của Bác sĩ
:
PHÁT MINH NGUỒN GỐC NẤM CỦA
SIÊU VI VÀ UNG THƯ
Tác giả: Ts. Bs.
Nguyễn Thi Thanh
“BẰNG
PHÁT MINH CANADA TRỊ TUYỆT CĂN,
VÔ
ĐỘC, UNG THƯ & SIÊU VI”
www.cancer-canada.com
TRUNG TÂM QUỐC TẾ TRỊ
TẬN GỐC
UNG THƯ & BỆNH
SIÊU VI
TS. BS. NGUYỄN THỊ THANH MD. PHD.
72 Bis Đường Hai Bà Trưng Phường 1
Thị Xã Quảng Trị, Tỉnh Quảng Trị, Việt Nam
Canada ĐT: 450-651-9599
Chữa xa bất đắc dỉ, gởi hồ sơ bệnh, theo dỏi bằng Email.
(Mọi tài liệu
khoa học bằng Việt Pháp Anh được biếu bằng Email)
CHỮA TRỊ MIỄN PHÍ BS. CHO ĐỒNG BÀO
|